Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

TÌM HIỂU VỀ CÔNG VIỆC CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN

Có thể dễ dàng nhận thấy nhiệm vụ của điều dưỡng đa khoa là vô cùng quan trọng trong hệ thống y tế, nhưng bạn đã biết cụ thể công việc hàng ngày của 1 điều dưỡng viên? Để làm tốt công việc của mình người học trung cấp điều dưỡngngành Điều Dưỡng đa khoa cần có những phẩm chất gì? Học Điều dưỡng đa khoaở đâu đào tạo uy tín – chất lượng tại Hà Nội?

trung-cap-dieu-duong-da-khoa-2

 

Ở bài viết này chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu sâu hơn và rõ ràng hơn cho những bạn yêu mến và có ước mơ làm việc trong ngành điều dưỡng đa khoa giúp các có định hướng đúng đắn nhất trên con đường mình đã chọn.

Những công việc cơ bản của Trung cấp Điều dưỡng đa khoa

Dưới sự chỉ đạo của trưởng khoa và Y tá trưởng, Y tá điều dưỡng chăm sóc có những nhiệm vụ sau:

– Tổ chức tiếp đón, hướng dẫn người bệnh làm các thủ tục hành chính.

– Thực hiện nghiêm chỉnh quy chế của bệnh viện, đặc biệt là những quy chế chăm sóc bệnh nhân toàn diện, Nghiêm chỉnh thực hiện Quy chế bệnh viện, quy chế quản lý buồng bệnh và buồng thủ thuật.

– Ghi những thông số, dấu hiệu, triệu chứng bất thường của người bệnh và cách xử lí vào phiếu theo dõi và phiếu chăm sóc theo quy định.

– Nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ y lệnh của thầy thuốc.

– Hàng ngày đi thăm người bệnh; nhận các y lệnh của Bác sĩ về điều trị và kế hoạch chăm sóc của điều dưỡng trưởng khoa để tổ chức thực hiện.

– Lập kế hoạch chăm sóc cho người bệnh, uống thuốc, thực hiện kĩ thuật tiêm thuốc, truyền dịch thay băng, đặt thông, kĩ thuật cấp cứu theo quy định và vận hành bảo quản các thiết bị y tế trong khoa theo sự phân công.

– Kiểm tra sử dụng thuốc trực hàng ngày và bổ sung thuốc trực theo cơ số quy định.

– Thường xuyên kiểm tra việc sử dụng, bảo dưỡng và quản lí thiết bị, vật tư y tế theo quy định hiện hành. Lập kế hoạch yêu cầu mua, sửa chữa dụng cụ bị hỏng.

– Hàng ngày cuối giờ làm việc phải bàn giao người bệnh cho Y tá điều dưỡng trực và ghi vào sổ những y lệnh còn lại trong ngày, những yêu cầu theo dõi, chăm sóc đối với từng người bệnh, đặc biệt là người bệnh nặng.

– Động viên người bệnh an tâm điều trị. Bản thân phải thực hiện tốt quy định y đức.

– Thường xuyên tự học, cập nhật kiến thức.

– Báo cáo tình hình người bệnh hàng ngày, hàng tháng 3, 6, 9 và 12 tháng theo quy định.

– Ghi cập nhật sổ đăng kí người bệnh vào viện, chuyển khoa, chuyển viện, ra viện và tử vong

– Bảo quản tài sản, thuốc, dụng cu y tế; trật tự và vệ sinh buồng bệnh, buồng thủ thuật trong phạm vi được phân công.

– Tham gia nghiên cứu khoa học về lĩnh vực chăm sóc người bệnh và hướng dẫn thực hành về công tác chăm sóc người bệnh cho học viên khi được điều dưỡng trưởng khoa phân công.

– Thu hồi thuốc thừa để trả lại Khoa Dược theo quy chế sử dụng thuốc.

– Tổng hợp thuốc đã dùng cho một người bệnh trước lúc ra viện.

– Đối với những người bệnh nặng nguy kịch phải chăm sóc theo y lệnh và báo cáo kịp thời những diễn biến bất thường cho bác sĩ điều bị xử lí kịp thời.

– Tham gia thường trực theo sự phân công của điều dưỡng trưởng.

dieu-duong-da-khoa-cham-soc-benh-nhan

Điều dưỡng viên có thể tiến lên vị trí trợ lý Y tá trưởng hay Y tá trưởng, và trợ lý giám đốc, giám đốc và phó chủ tịch. Vị trí quản trị ngày càng đòi hỏi bằng tốt nghiệp hay bằng cao học về quản trị dịch vụ sức khỏe và y tế. Ngoài ra, cũng cần phải có khả năng lãnh đạo, kỹ năng đàm phán và có óc suy xét.Phẩm chất cần thiết của cán bộ ngành Điều dưỡng đa khoa – điều dưỡng viên:

  • Phải có kiến thức y học tổng quát vì vậy cần có thói quen đọc tài liệu chuyên ngành: Dược và các sản phẩm ngành dược ra đời liên tục, thay tên, thêm bớt thành phần, các ứng dụng kỹ thuật mới như nội soi lazer, phác đồ điều trị mới, kết quả nghiên cứu mới …
  • Người điều dưỡng đa khoa cần phải có y đức và tinh thần trách nhiệm cao vì công việc liên quan đến sinh mạng của bệnh nhân, bất kì một sai lầm nào cũng để lại hậu quả khó lường.

Học trung cấp điều dưỡng ở đâu?

 Nếu muốn trở thành Y tá điều dưỡng, bạn phải đăng kí vào học tại Khoa điều dưỡng đa khoa của trường Y tế. Trường Trung cấp Y Khoa Pasteur là trường có uy tín hàng đầu, chuyên đào tạo nhân lực ngành Điều dưỡng đa khoa.

Sau khi hoàn thành khóa học, người học được Trường Y Khoa Pasteur cấp bằng trung cấp ngành điều dưỡng đa khoa chính quy thuộc hệ thống văn bằng Quốc gia, được phép dự thi liên thông Đại học điều dưỡng  khi hội đủ các điều kiện để học liên thông theo quy đinh của Bộ Y tế và Bộ GD-ĐT và được thi tuyển dụng công chức, viên chức vào các cơ sở Y tế Nhà nước như Bệnh viện, Trung tâm Y tế, Trạm Y tế … theo quy định tuyển dụng công chức, viên chức của Bộ Y tế.

12 tiêu chuẩn Điều dưỡng hiện đại

Vai trò người điều dưỡng rất quan trọng. Họ là người trực tiếp chăm sóc, thực hiện các y lệnh của bác sĩ, chăm lo từng bữa ăn, viên thuốc, giấc ngủ của người bệnh. Đồng thời là chiếc cầu nối giữa người bệnh với người thầy thuốc, và trong một chừng mực nào đó, là với bệnh viện, họ là đảm bảo cho thành công của mọi mặt công tác điều dưỡng, điều trị. Vì những lẽ đó, người điều dưỡng luôn phải tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp, rèn luyện chuyên môn kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công việc.


1- Người điều dưỡng phải có trình độ chuyên môn tốt và được đào tạo bài bản. Họ cần phải có kiến thức đến nơi đến chốn, tích luỹ được từ một học viện có uy tín, về nghiệp vụ điều dưỡng. Họ luôn luôn sẵn sàng để tìm hiểu, trau dồi học hỏi thêm. Kỹ năng chuyên môn tốt phải là một điều kiện tiên quyết của người điều dưỡng .

2- Người điều dưỡng thường xuyên tiếp xúc với người bệnh, do đó họ cần phải có kỹ năng giao tiếp xuất sắc. Họ phải có đầy đủ các kỹ năng nói, viết, đồng thời với kỹ năng lắng nghe người khác.
Người điều dưỡng phải có khả năng nói chuyện cởi mở với người bệnh và các thành viên trong gia đình của họ, để hiểu được nhu cầu và những điều mà người bệnh đang mong đợi. Họ cần phải giải thích được cho người bệnh một cách đơn giản và dễ hiểu về bệnh lý và các biện pháp điều trị.

3- Tính siêng năng, cẩn trọng là một tố chất quan trọng của người điều dưỡng. Họ phải thường xuyên cảnh giác trong mọi thời điểm về tình trạng và diễn biến của người bệnh và phải phát hiện được ngay từng thay đổi nhỏ trong tình trạng sức khoẻ của người bệnh mà mình đã được phân công chăm sóc.

4- Người điều dưỡng cần phải có sự quân bình về mặt cảm xúc.
Điều dưỡng là một công việc rất căng thẳng. Hàng ngày người điều dưỡng phải chứng kiến những tình huống chấn thương nặng, các cuộc phẫu thuật cấp cứu và đôi khi cả những trường hợp tử vong. Do đó, người điều dưỡng phải có khả năng chịu đựng tốt áp lực công việc. Người điều dưỡng phải tự rèn luyện cho mình một tinh thần mạnh mẽ và không dễ bị tác động bởi các hoàn cảnh khẩn cấp. Họ phải có kỹ năng giao tiếp tốt trong các điều kiện và tình hình căng thẳng, có sức chịu đựng và khả năng đối phó tốt với stress.

5- Người điều dưỡng phải biết cảm thông, năng động, tự tin, có tính lạc quan, có óc quan sát, nhanh chóng tiếp thu cái mới, nhanh chóng linh hoạt thích nghi với mọi tình huống và mọi môi trường làm việc. Họ phải có tinh thần tương trợ lẫn nhau trong công việc. Họ phải biết đặt lợi ích cục bộ của từng khoa phòng dưới lợi ích của toàn bệnh viện

6- Người điều dưỡng phải biết yêu thương người bệnh, không bảo thủ định kiến, linh hoạt, có kỹ năng lãnh đạo, có khả năng làm việc theo nhóm và có mối quan hệ tốt đối với các đồng nghiệp. Họ cần phải biết nhanh chóng yêu cầu sự trợ giúp khi cần thiết.
7- Sự thông minh, tư duy nhạy bén, phản ứng nhanh nhẹn là một trong những yếu tố then chốt đối với nghề điều dưỡng. Trong bất kỳ tình huống nghiêm trọng hoặc khẩn cấp nào về mặt y khoa, nếu chưa có ngay sự hiện diện của bác sĩ, người điều dưỡng cũng không được bối rối. Họ phải có đủ tự tin để đưa ra các quyết định đúng lúc và kịp thời.

8- Sự vị tha và thấu hiểu là những phẩm chất mà tất cả các điều dưỡng cần phải có.
Điều dưỡng phải luôn bình tĩnh và ân cần đối với người bệnh, ngay cả trong những lúc tâm lý họ đang rất căng thẳng và gây hấn. Điều dưỡng cần phải hiểu được nỗi đau đớn, thống khổ của người bệnh, biết kìm nén những nỗi bức xúc, nóng giận của bản thân và đem lại cho người bệnh sự thoải mái, thiện cảm.

9- Người điều dưỡng cần phải có sự linh hoạt trong giờ giấc làm việc và trách nhiệm của mình. Điều dưỡng là một nghề đòi hỏi nhiều thời gian. Nó không phải là một nghề hành chính có giờ giấc làm việc cụ thể. Cấp cứu y khoa có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Điều dưỡng thường phải kéo dài thời gian làm nhiệm vụ của mình, làm việc ca đêm, hoặc làm việc cả vào những ngày lễ và nghỉ cuối tuần. Người điều dưỡng nên tránh phàn nàn về những điều đó.

10- Người điều dưỡng cần có độ bền vững về thể chất. Họ phải có khả năng thực hiện được một số thao tác tỉ mỉ và chính xác, giữ tư thế đứng thẳng trong một thời gian dài, phải thường xuyên di chuyển, nâng đỡ được vật nặng hoặc người bệnh mỗi ngày.

11- Người điều dưỡng cần phải có sự tôn trọng, lễ phép đối với người bệnh và chấp hành nghiêm các quy định của bệnh viện. Họ phải toàn tâm toàn ý cống hiến cho nghề nghiệp mà mình đã chọn lựa. Đồng thời cần phải có kiến thức về các nền văn hóa và truyền thống đa dạng của từng đối tượng người bệnh. Họ cần thực hiện nghiêm chỉnh những yêu cầu bảo mật của người bệnh và phải tôn trọng các nguyện vọng chính đáng của người bệnh.

12- Điều dưỡng cần phải năng động và vui vẻ. Sự hiện diện của họ phải giúp cho người bệnh thoải mái và thư giãn. Khi xuất hiện với tác phong niềm nở, người điều dưỡng sẽ làm giảm căng thẳng và nỗi đau của người bệnh. Người điều dưỡng phải luôn có giọng nói dịu dàng, mềm mại, dáng đứng, dáng đi khoan thai, nghiêm túc.

Người điều dưỡng phải luôn đặt lợi ích của người bệnh ở giữa trái tim mình và khi có những phẩm chất tốt đẹp như thế, người điều dưỡng sẽ như một thiên sứ đến với từng người bệnh.
theo dieuduongviet.net

Lịch sử phát triển ngành Điều dưỡng

Ngành Điều dưỡng có một lịch sử phát triển đáng tự hào. Những người phụ nữ ngày xưa với vai trò làm vợ, làm mẹ, họ bao gồm cả việc chăm sóc và nuôi nấng những thành viên của gia đình. Xã hội ngày càng phát triển, dân cư ngày càng đông đúc, có nhiều người đau ốm và họ có thể chăm sóc bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó, những người phụ nữ trong gia đình đã tham gia vào các công việc của xã hội. Trong xã hội đã xuất hiện các cá nhân, những tổ chức giúp đỡ những người đau ốm cần chăm sóc và ngành Điều dưỡng ra đời.

Ngành Điều dưỡng trong nền văn minh cổ đại

Ngành Điều dưỡng chưa bao giờ tồn tại một cách riêng biệt. Trong thời gian đầu, vai trò của người điều dưỡng đã được xác định bởi những cấu trúc xã hội mà con người đang sinh sống. Chăm sóc sức khỏe và điều dưỡng như chúng ta đã biết ngày nay chịu ảnh hưởng bởi những gì đã xảy ra trong quá khứ.

Ở nền văn hoá nguyên thuỷ, con người nghĩ rằng đau ốm là do một nhân vật siêu phàm gây nên. Để giúp giải thích những điều chưa biết này, thuyết duy linh đã mô tả rằng "mọi vật trong tự nhiên sống dưới một thế lực và khả năng không thấy được, những linh hồn tốt sẽ mang lại điều may mắn, những linh hồn tội lỗi sẽ bị ốm đau và chết" (Dolan, 1978). Suốt thời gian này, vai trò của những thầy thuốc và điều dưỡng tồn tại tách biệt. Người thầy thuốc điều trị bệnh tật qua việc cầu kinh, lo sợ hoặc sự tuyệt vọng làm thế nào để giải thoát những linh hồn tội lỗi. Người điều dưỡng thông thường là những người mẹ, người mà thường chăm sóc chính gia đình họ khi bị ốm đau bằng những chăm sóc y tế, hoặc những phương thuốc thảo mộc. Vai trò chăm sóc này của người điều dưỡng tiếp tục được duy trì cho đến bây giờ.

Khi mà những bộ lạc trở nên văn minh hơn, những đền thờ trở thành trung tâm của những chăm sóc y tế, bởi vì người ta tin rằng, sự đau ốm được gây ra bởi những dấu hiệu không hài lòng của Chúa. Những vị linh mục, thầy tu được xem như là những người thầy thuốc bậc cao, cuộc sống của những người đàn ông và phụ nữ không có giá trị trong xã hội. Những người điều dưỡng như là những nô lệ, họ thực hiện những nhiệm vụ của những người đầy tớ dựa trên những mệnh lệnh của những thầy thuốc linh mục. Trái lại, suốt thời kỳ này, người Hebrews cổ đại đã đưa ra những luật lệ về những mối quan hệ đạo đức của con người, về sức khỏe tâm trí và về sự điều khiển bệnh tật thông qua 10 điều răn của Đức Chúa Trời. Người điều dưỡng chăm sóc ốm đau tại nhà và tại cộng đồng và cũng thực hiện như vai trò của nữ hộ sinh (Dolan, 1978).

Trong thời kỳ cổ đại, con người có rất ít kiến thức để chăm sóc trong lúc ốm đau. Suốt thời gian này họ tin tưởng nhiều vào Chúa, Thần linh. Khi xã hội ngày càng phát triển hơn, nhiều phương pháp điều trị bệnh ra đời và người ta đã biết rằng, việc chăm sóc lúc ốm đau là cần thiết. Đặc biệt trong giai đoạn này vai trò của người hộ sinh là quan trọng. Họ chăm sóc cả mẹ và con suốt quá trình thai nghén và sinh nở. Họ hướng dẫn cho sản phụ cách chăm sóc con, cho con bú và cách tự chăm sóc cho chính bản thân.

Ở nền văn hoá cổ đại tại Châu Phi, chức năng của người điều dưỡng là bao gồm cả vai trò người hộ sinh, chăm sóc trẻ em và người già.

Ở Ấn Độ, có nhiều bệnh viện với đội ngũ điều dưỡng nam, những người điều dưỡng nam này phải hội đủ 4 điều kiện:

- Có kiến thức cơ bản về thuốc.

- Thông minh.

- Hết lòng vì bệnh nhân.

- Có sức khỏe tốt.


Vào thế kỷ thứ III ở Rome, phụ nữ không đảm nhiệm vai trò này mà là những người đàn ông, gọi là Parabolani Brotherhood. Nhóm những người đàn ông này chăm sóc những ai đau ốm.

Ở thời Crusades, đã có nhiều bệnh viện từ thiện được xây dựng. Những bệnh viện này dùng để chăm sóc những trẻ mồ côi, goá phụ, người nghèo và những người đau ốm.

Năm 60, bà Phoebe (Hylạp) đã đến từng gia đình có người ốm đau để chăm sóc. Bà được ngưỡng mộ và suy tôn là người nữ điều dưỡng tại gia đầu tiên của thế giới.

Thế kỷ thứ IV, bà Fabiola (Lamã) đã tự nguyện biến căn nhà sang trọng của mình thành bệnh viện, đón những người nghèo khổ đau ốm về để tự bà chăm sóc nuôi dưỡng.

Suốt từ năm 500 - 1500 sau Công nguyên, nhiều tổ chức quân đội gồm cả nam và nữ được thành lập để chăm sóc những người đau ốm.

Ở thế kỷ thứ XVI, Camillus De Lellis đã thành lập những nhóm người để chăm sóc người nghèo, người đau ốm và những người tù. Năm 1633, Sisters Chariting đã thành lập Saint Vincent De Paul tại Pháp. Đó là tổ chức đầu tiên dưới thời Giáo Hoàng dùng để chăm sóc người đau ốm. Tổ chức đã gởi những người điều dưỡng này đi khắp nơi trên thế giới, họ đã thành lập thêm nhiều bệnh viện ở Canada, Mỹ và Úc.

Thời kỳ viễn chinh ở Châu Âu, bệnh viện được xây dựng để chăm sóc số lượng lớn những người hành hương bị đau ốm. Cả nam và nữ đều thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người. Nghề điều dưỡng trở thành nghề được coi trọng.

Vào thời điểm bắt đầu có đạo Cơ đốc, người điều dưỡng có vai trò quan trọng và rõ ràng hơn. Dẫn đầu bởi niềm tin về tình yêu và sự chăm sóc những cá nhân khác là quan trọng, tổ chức đầu tiên về chăm sóc những người đau ốm được thực hiện bởi những người phụ nữ, gọi là "những người trợ tế". Trong suốt cuộc viễn chinh ở Châu Âu, những bệnh viện đã được xây dựng để chăm sóc một số lượng những người hành hương cần chăm sóc sức khỏe và người điều dưỡng được kính trọng hơn.

Đến cuối thế kỷ thứ XVI, chế độ nhà tù ở Anh và Châu Âu bị bãi bỏ. Các tổ chức tôn giáo bị giải tán, dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng người chăm sóc bệnh nhân. Những người phụ nữ phạm tội, bị giam giữ được tuyển chọn làm điều dưỡng, thay vì thực hiện án tù; còn những người phụ nữ khác chỉ chăm sóc gia đình mình thôi. Bối cảnh này tạo ra những quan niệm và thái độ xấu của xã hội đối với điều dưỡng.


Giữa thế kỷ XVIII đầu thế kỷ thứ XIX, việc cải cách xã hội đã thay đổi về vai trò người điều dưỡng. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung cũng được cải thiện. Trong thời kỳ này, một phụ nữ người Anh đã được thế giới tôn kính và suy tôn là người sáng lập ra ngành Điều dưỡng. Đó là Florence Nightingale (1820 - 1910). Bà sinh ra trong một gia đình giàu có ở Anh nên được giáo dục chu đáo. Bà biết nhiều ngoại ngữ, đọc nhiều sách triết học, tôn giáo, chính trị. Ngay từ nhỏ, bà đã thể hiện thiên tính và hoài bão được giúp đỡ người nghèo khổ. Bà đã vượt qua sự phản kháng của gia đình để vào học và làm việc tại bệnh viện Kaiserwerth (Đức) năm 1847. Sau đó bà học thêm ở Paris (Pháp) vào năm 1853. Những năm 1854 - 1855, chiến tranh Crimea nổ ra, bà cùng 38 phụ nữ Anh khác được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để phục vụ các thương binh của quân đội hoàng gia Anh. Tại đây bà đã đưa ra lý thuyết về khoa học vệ sinh trong các cơ sở y tế và sau 2 năm bà đã làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng từ 42% xuống còn 2%. Đêm đêm, Florence cầm ngọn đèn dầu đi thăm bệnh, chăm sóc thương binh, đã để lại hình tượng người phụ nữ với cây đèn trong trí nhớ những người thương binh hồi đó. Chiến tranh chưa kết thúc, Florence phải trở lại nước Anh. Cơn "sốt Crimea" và sự căng thẳng của những ngày ở mặt trận đã làm cho bà mất khả năng làm việc. Bà được dân chúng và những người lính Anh tặng món quà 50.000 bảng Anh để chăm sóc sức khỏe. Vì sức khỏe không cho phép tiếp tục làm việc ở bệnh viện, Florence đã lập ra hội đồng quản lý ngân sách 50.000 bảng Anh để thành lập trường đào tạo điều dưỡng đầu tiên trên thế giới ở nước Anh vào 1860. Trường điều dưỡng Nightingale cùng với chương trình đào tạo một năm đã đặt nền tảng cho hệ thống đào tạo điều dưỡng không chỉ ở nước Anh mà còn ở nhiều nước trên thế giới.

Để tưởng nhớ công lao của bà và khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp mà Florence đã dày công xây dựng. Hội đồng Điều dưỡng thế giới đã quyết định lấy ngày 12 - 5 hằng năm, ngày sinh của Florence Nightingale, làm ngày điều dưỡng quốc tế. Bà đã trở thành người mẹ tinh thần của ngành Điều dưỡng thế giới.

Hiện nay ngành Điều dưỡng của thế giới đã được xếp là một ngành nghề riêng biệt, ngang hàng với các ngành, nghề khác. Có nhiều trình độ điều dưỡng khác nhau: đại học, trên đại học. Nhiều cán bộ điều dưỡng đã có bằng thạc sĩ, tiến sĩ... và các học hàm phó giáo sư, giáo sư...

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG VIỆT NAM

1. Trước thời Pháp thuộc

1.1. Vai trò của ngưòi mẹ

Cũng như thế giới, từ xa xưa các bà mẹ Việt Nam đã chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và gia đình mình. Bên cạnh những kinh nghiệm chăm sóc của gia đình, các bà đã được truyền lại các kinh nghiệm dân gian của các lương y trong việc chăm sóc người bệnh, biết dùng các cây thuốc nam để chữa bệnh,...




1.2. Người đặt nền móng cho y học cổ truyền Việt Nam

Hai danh y nổi tiếng thời xưa của dân tộc ta là Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) và Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII) đã sử dụng phép dưỡng sinh để trị bệnh, đã phát hiện ra hàng trăm vị thuốc để điều trị bệnh có hiệu quả. Hai danh y này đã để lại cho nền y học nước ta một gia sản có giá trị lớn về y đức, y thuật Việt Nam.

1.3. Vai trò của các tôn giáo trong công tác điều dưỡng

Cuối thế kỷ XV, nhiều đoàn giáo sĩ phương Tây đã đến Việt Nam vừa truyền đạo, vừa chữa bệnh cho các tín đồ. Một số giáo sĩ được mời vào cung vua để chữa bệnh cho các vua quan trong triều đình. Cuối thế kỷ XVII, linh mục Vachet người Pháp và linh mục Coffler người Bồ Đào Nha là hai giáo sĩ đầu tiên đặt nền móng y học và điều dưỡng phương Tây ở nước ta. Sau đó, các tu viện được thành lập, các trại chăm sóc cho người nghèo, trẻ mồ côi do các nữ tu đảm nhiệm. Việc chăm sóc mang tính nhân đạo, tự nguyện và không đòi hỏi thù lao.

2. Dưới thời Pháp thuộc

Thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã xây dựng nhiều bệnh viện. Trước năm 1900, họ đã ban hành chế độ học việc cho những người muốn làm việc tại bệnh viện. Việc đào tạo không chính quy mà chỉ là cầm tay chỉ việc. Họ là những người giúp việc thạo kỹ thuật, vững tay nghề và chỉ phụ việc bác sĩ mà thôi.

Năm 1901, mở lớp nam y tá đầu tiên tại bệnh viện Chợ Quán, nơi điều trị bệnh tâm thần và bệnh phong.

Ngày 20-12-1906, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thành lập ngạch nhân viên điều dưỡng bản xứ.

Năm 1910, lớp học dời về bệnh viện Chợ Rẫy để đào tạo y tá đa khoa.

Ngày 1-12-1912, Công sứ Nam Kỳ ra nghị định mở lớp nhưng mãi đến năm 1923 mới mở Trường Y tá và ban hành ngạch bậc y tá bản xứ. Do chính sách của thực dân Pháp không tôn trọng người bản xứ và coi y tá chỉ là người giúp việc nên về lương bổng chỉ được xếp ở ngạch hạ đẳng.

Năm 1924, Hội Y tá ái hữu và Nữ hộ sinh Đông Dương thành lập, người sáng lập là cụ Lâm Quang Thiêm, nguyên Giám đốc bệnh viện Chợ Quán. Chánh hội trưởng là ông Nguyễn Văn Mân. Hội đã đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp yêu cầu đối xử công bằng với y tá bản xứ, chấp nhận cho y tá được thi chuyển ngạch trung đẳng, nhưng không được tăng lương mà chỉ được phụ cấp đắt đỏ.

Năm 1937, Hội Chữ thập đỏ Pháp tuyển sinh lớp nữ y tá đầu tiên ở Việt Nam. Lớp học tại 38 Tú Xương (hiện là Trung tâm điều trị trẻ suy dinh dưỡng).

3. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vừa mới thành lập đã phải bước ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngành Y tế non trẻ mới ra đời, với vài chục bác sĩ và vài trăm y tá được đào tạo thời Pháp thuộc. Lớp y tá đầu tiên được đào tạo 6 tháng do giáo sư Đỗ Xuân Hợp làm hiệu trưởng được tổ chức tại quân khu X (Việt Bắc). Những y tá vào học lớp này được tuyển chọn tương đối kỹ lưỡng. Sau đó liên khu III cũng mở lớp đào tạo y tá. Năm 1950, ta mở nhiều chiến dịch. Vì vậy nhu cầu chăm sóc thương bệnh binh tăng mạnh. Việc đào tạo y tá cấp tốc (3 tháng là phổ biến) đã cung cấp nhiều y tá cho kháng chiến. Để đáp ứng công tác quản lý, chăm sóc và phục vụ người bệnh trong những năm 1950. Cục Quản lý cũng đã mở một số lớp đào tạo y tá trưởng, nhưng chương trình chưa được hoàn thiện. Mặt khác, kháng chiến rất gian khổ, cơ sở vật chất nghèo nàn, thuốc men cũng rất hạn chế, nên việc điều trị cho bệnh nhân chủ yếu dựa vào chăm sóc và chính nhờ điều dưỡng mà nhiều thương, bệnh binh bị chấn thương, cắt cụt, vết thương chiến tranh, sốt rét ác tính,... đã qua khỏi.

4. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)

Năm 1954, kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đất nước ta bị chia làm 2 miền. Miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục chịu sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Tuy vậy, mỗi miền có những bước phát triển riêng về công tác điều dưỡng.

4.1. Ở miền Nam

Năm 1956 có trường điều dưỡng đào tạo điều dưỡng 3 năm. Cô Lâm Thị Hạ, là nữ giám học đầu tiên.

Năm 1968, do thiếu điều dưỡng trầm trọng nên đã mở thêm ngạch điều dưỡng sơ học 12 tháng chính quy tại các trường điều dưỡng. Từ những năm 1960 đã có Sở Điều dưỡng tại Bộ Y tế.

Năm 1970, Hội Điều dưỡng Việt Nam được thành lập, cô Lâm Thị Hai là chánh sự vụ Sở Điều dưỡng đầu tiên kiêm Chủ tịch hội.

Năm 1973, mở lớp điều dưỡng y tế công cộng 3 năm tại Viện Quốc gia Y tế công cộng.

4.2. Ở miền Bắc

Năm 1954, Bộ Y tế đã xây dựng chương trình đào tạo y tá sơ cấp hoàn chỉnh để bổ túc cho lớp y tá học cấp tốc trong chiến tranh.

Năm 1968, Bộ Y tế xây dựng tiếp chương trình đào tạo y tá trung cấp, lấy học sinh tốt nghiệp lớp bảy phổ thông đào tạo y tá 2 năm 6 tháng. Khoá đầu tiên mở lớp y tá cạnh bệnh viện Bạch Mai, sau đó đưa vào các trường trung học trực thuộc Bộ. Đồng thời Bộ gửi giảng viên của hệ này đi tập huấn ở Liên Xô, Ba Lan, Cộng hoà Dân chủ Đức,...

Việc đào tạo điều dưỡng trưởng cũng đã được quan tâm. Ngay từ năm 1960, một số bệnh viện và Trường Trung học Y tế trung ương đã mở lớp đào tạo y tá trưởng như lớp trung học y tế bệnh viện Bạch Mai. Tuy nhiên chương trình và tài liệu giảng dạy chưa được hoàn thiện.

Ngày 21 tháng 11 năm 1963, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định về chức vụ y tá trưởng ở các cơ sở điều trị bệnh viện, viện điều dưỡng, trại phong, bệnh xá từ 30 giường bệnh trở lên.

4.5. Công tác điều dưỡng từ năm 1975 đến nay

Năm 1975, kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước được thống nhất, Bộ Y tế đã thống nhất chỉ đạo công tác chăm sóc và điều trị bệnh nhân ở cả 2 miền. Từ đó, nghề điều dưỡng bắt đầu có tiếng nói chung giữa 2 miền Nam - Bắc.

Từ năm 1975, tiêu chuẩn tuyển chọn vào y tá trung học cần trình độ văn hoá cao hơn, học sinh được tuyển chọn bắt buộc phải tốt nghiệp trung học phổ thông hay bổ túc văn hoá và chương trình đào tạo cũng hoàn thiện hơn.

Ngày 27 tháng 11 năm 1979, Bộ Y tế ra công văn số 4839 về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với y tá trưởng khoa và bệnh viện.

Năm 1982, Bộ Y tế ban hành chức danh y tá trưởng bệnh viện và y tá trưởng khoa.

Năm 1985, một số bệnh viện đã xây dựng phòng điều dưỡng, phòng này tách ra khỏi phòng y vụ.

Ngày 14 tháng 7 năm 1990, Bộ Y tế ban hành quyết định số 570/BYT-QĐ thành lập phòng điều dưỡng trong các bệnh viện có trên 150 giường bệnh.

Khởi đầu, ông Phạm Đức Mục, trưởng phòng điều dưỡng Viện Nhi Thụy Điển làm việc 100%; bà Lê Thị Sửu, giáo viên trường Trung học Y tế Hà Nội và bà Lê Thị Bình, giáo viên Trung học Y tế Bạch Mai làm 50% tại phòng Điều dưỡng Bộ Y tế được đặt trong Vụ Quản lý sức khỏe, nay là Vụ Điều trị Bộ Y tế để phát triển công tác điều dưỡng trong cả nước thời đó.

Ngày 14 tháng 3 năm 1992, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định thành lập Phòng Y tá của Bộ đặt trong Vụ Quản lý sức khỏe.

Ngày 10 tháng 6 năm 1993, Bộ Y tế ra quyết định số 526 kèm theo quy định về chế độ trách nhiệm của y tá trong việc chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện. Cùng ngày đó, vụ Quản lý sức khỏe (nay là Vụ Điều trị) ra công văn số 3722 về việc triển khai thực hiện quy định trên.

Về đào tạo, năm 1985, Bộ Y tế được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho phép tổ chức khoá đào tạo đại học điều dưỡng đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội, năm 1986 mở tại Trường Đại học Y - Dược thành phố Hồ Chí Minh. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực đào tạo Đại học điều dưỡng của nước ta.

Tổ chức Y tế thế giới rất hoan nghênh chủ trương này, vì từ đây Bộ Y tế đã xác định được hướng đi của ngành Điều dưỡng, coi đây là một ngành nghề riêng biệt, chứ không suy nghĩ như trước đây cho y tá giỏi học chuyên tu thành bác sĩ.

Năm 1994, Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Y tế lại tiếp tục cho phép đào tạo cử nhân cao đẳng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên y học khoá III tại Trường Đại học Y - Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Cao đẳng Y tế Nam Định.

Năm 1998, Trường Đại học Y khoa Huế mở lớp điều dưỡng cao đẳng đầu tiên tại khu vực miền Trung.

Vào những năm 60 của thế kỷ XX đã đào tạo điều dưỡng trưởng tại Bệnh viện Bạch Mai để cung cấp Điều dưỡng trưởng cho các Bệnh viện Trung ương nhưng chưa được bài bản. Năm 1990, lớp đầu tiên đào tạo điều dưỡng trưởng được Bộ Y tế cho phép là Trường Trung học Kỹ thuật Y tế trung ương I phối hợp với chuyên gia Thụy Điển mở 3 lớp "Điều dưỡng trưởng Bệnh viện": lớp thứ nhất tại Bệnh viện Uông Bí - Thụy Điển. Sau đó lớp thứ hai mở tại Trường Cao đẳng Y tế Nam Định, lớp thứ 3 tại Trường Đại học Y - Dược Hồ Chí Minh.

Đến nay khoảng 50% điều dưỡng trưởng khoa, điều dưỡng trưởng bệnh viện đã được đào tạo qua các lớp quản lý điều dưỡng trưởng.

Năm 1986, Hội Điều dưỡng khu vực thành phố Hồ Chí Minh mở đại hội. Năm 1989, Hội Điều dưỡng thủ đô Hà Nội và Hội Điều dưỡng tỉnh Quảng Ninh ra đời. Sau đó lần lượt một số tỉnh thành khác cũng thành lập Hội Điều dưỡng, thôi thúc sự ra đời của Hội Điều dưỡng cả nước. Ngày 26 tháng 10 năm 1990, Hội Y tá - Điều dưỡng Việt Nam mở đại hội lần thứ nhất tại hội trường Ba Đình lịch sử. Nhiệm kỳ thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) Hội là 3 năm (1990 - 1993). BCH có 31 ủy viên ở cả 2 miền. Bà Vi Thị Nguyệt Hồ là Chủ tịch, 3 phó Chủ tịch là: Cô Trịnh Thị Loan, Cô Nguyễn Thị Niên, ông Nguyễn Hoa. Tổng Thư ký là ông Phạm Đức Mục. Ngày 26 tháng 3 năm 1993, đại hội đại biểu y tá - điều dưỡng toàn quốc lần thứ 2 (nhiệm kỳ 1993 - 1997) được tổ chức tại Bộ Y tế và BCH mới gồm 45 ủy viên, Chủ tịch là Bà Vi Thị Nguyệt Hồ, 3 phó Chủ tịch là: Ông Nguyễn Hoa, Cô Trịnh Thị Loan, Ông Phạm Đức Mục (kiêm tổng thư ký).

Ngày 13 tháng 8 năm 1997, sau nhiều cố gắng của Hội Y tá - Điều dưỡng Việt Nam, Nhà nước đã chấp thuận đổi tên Hội Y tá - Điều dưỡng thành Hội Điều dưỡng.

Từ khi thành lập đến nay Hội đã có 19 tỉnh hội và trên 160 chi hội. Sự hoạt động của Hội đã góp phần động viên đội ngũ điều dưỡng thêm yêu nghề nghiệp và thúc đẩy công tác chăm sóc tại các cơ sở khám bệnh, làm chuyển đổi bộ mặt chăm sóc điều dưỡng.

Trong quá trình phát triển của ngành Điều dưỡng Việt Nam từ khi đất nước được thống nhất đến nay, chúng ta đã được nhiều tổ chức điều dưỡng quốc tế giúp đỡ cả về tinh thần, vật chất và kiến thức. Trong các tổ chức đó phải kể đến đội ngũ điều dưỡng của Thụy Điển đã liên tục đầu tư cho việc đào tạo hệ thống điều dưỡng. Nhiều chuyên gia điều dưỡng Thụy Điển đã để lại những kỷ niệm tốt đẹp cho anh chị em điều dưỡng Việt Nam như Eva Johansson, Lola Carison, Ann Mari Nilsson, Marian Advison, Emma Sunberg,... Tổ chức Y tế thế giới cũng đã cử những chuyên gia điều dưỡng giúp chúng ta như Chieko Sakamoto, Margret Truax, Miller Therese,... cùng nhiều chuyên gia điều dưỡng khác của tổ chức Care International, tổ chức khoa học Mỹ - Việt,... Các bạn đã giúp chúng ta cả về kinh phí, kiến thức và tài liệu. Chúng ta không thể quên được sự giúp đỡ quý báu của các bạn điều dưỡng quốc tế. Chính các bạn đã giúp đỡ chúng ta hiểu rõ nghề nghiệp của mình và phấn đấu cho sự nghiệp điều dưỡng Việt Nam phát triển.

..Ôn lại lịch sử ngành nghề là niềm tự hào bước đến tương lai ..

Điều dưỡng viên: tố chất, kiến thức và kỹ năng cần có

Nghề điều dưỡng có một quy tắc đạo đức quan trọng và hàng đầu là đặt chăm sóc bệnh nhân. Điều dưỡng viên phải chú ý đến từng chi tiết để phục vụ công việc và báo cáo chuẩn xác với bác sĩ hoặc các điều dưỡng viên cấp cao. Khả năng giữ bình tĩnh, lòng trắc ẩn, linh hoạt và sự cẩn trọng là tố chất cần thiết để trở thành một điều dưỡng.

Điều dưỡng viên cung cấp những hướng dẫn điều trị, chăm sóc và tư vấn cho bệnh nhân. Điều dưỡng viên có trách nhiệm khác nhau, trong đó bao gồm đảm bảo các điều kiện y tế tốt, quản lý thuốc, trả lời những thắc mắc của bệnh nhân và hỗ trợ xét nghiệm và chuẩn đoán. Khi bệnh nhân xuất viện, điều dưỡng viên đóng vai trò là người hướng dẫn cho người thân biết cách chăm sóc bệnh nhân tại nhà. Vì thế điều dưỡng viên đòi hỏi phải có kiến thức và kỹ năng chuyên nghiệp.

Trong chương trình Cử nhân khoa học chuyên ngành điều dưỡng 4 năm được giảng dạy tại trường đại học  chuyên ngành, các điều dưỡng viên tương lai sẽ được học các kiến thức chuyên môn từ: giải phẫu học, hóa học đến sinh lý và sinh học, toán học, tiếng Anh chuyên ngành. Bên cạnh đó điều dưỡng viên còn được trang bị những kiến thức chuyên môn về điều dưỡng và kỹ năng khác để trở thành một điều dưỡng viên chuyên nghiệp.

 

     

Các tố chất cần có của điều dưỡng viên

  • Bình tĩnh

Điều dưỡng viên nhiều kinh nghiệm cũng khó có thể chịu đựng với những trường hợp như bệnh nhân qua đời trước mắt mình hay tình trạng biểu hiện của những bệnh nhân nặng. Điều dưỡng viên phải có trách nhiệm giữ tình trạng bản thân cân bằng và không được rơi vào tình trạng căng thẳng. Chính sự bình tĩnh của điều dưỡng viên trong các tình huống nghiêm trọng này sẽ tạo ra một môi trường ổn định cho bệnh nhân và bình ổn tâm lý bệnh nhân tốt nhất.

  • Lòng trắc ẩn

Điều dưỡng viên phải chăm sóc và lòng trắc ẩn mang đến cho bệnh nhân sự thoải mái và yên tâm. Bệnh nhân cảm thấy khó chịu vì bệnh tật hoặc chấn của họ, và một lời an ủi động viên từ điều dưỡng viên mang đến những tác động tâm lý  ổn định tốt hơn các điều trị tâm lý. Điều dưỡng viên thường xuyên quan tâm đến cảm xúc của bệnh nhân sẽ giúp cải thiện đáng kể trạng thái cảm xúc và bệnh lý của bệnh nhân.

  • Linh hoạt

Điều dưỡng viên phải linh hoạt vì điều dưỡng viên thường xuyên phải làm việc liên tục trong nhiều giờ cũng như những ngày cuối tuần và ngày lễ. Nhiều bệnh viện, các trung tâm chăm sóc sức khỏe yêu cầu điều dưỡng viên phải luôn trong tình trạng sẵn sàng khi có cuộc gọi khẩn cấp.

  • Cẩn trọng

Điều dưỡng viên phải luôn cẩn trọng ở tất cả các hoạt động trong mọi tình huống để đảm bảo rằng các quy trình chăm sóc sức khỏe là chính xác. Điều dưỡng viên phải đảm bảo rằng không gây ra những sai lầm trong quá trình chăm sóc bệnh nhân vì sai lầm trong điều dưỡng sẽ ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân. Ngoài ra điều dưỡng viên phải chú ý đến các chi tiết trong các hạng mục điều trị của bệnh nhân để dùng thuốc đúng và quản lý quy trình chăm sóc một cách hiệu quả và tốt nhất. Cẩn trọng cũng giúp điều dưỡng viên tập trung và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quy trình điều dưỡng.

 Kiến thức và Kỹ năng cần có để trở thành điều dưỡng

  • Điều dưỡng viên phải am hiểu về thuốc

Điều dưỡng viên phải có sự hiểu biết và quản lý các loại thuốc. Thông thường, bác sĩ sẽ cho toa thuốc trừ khi điều dưỡng viên là người làm việc lâu năm có nhiều kinh nghiệm chuyên môn chẳng hạn như điều dưỡng chuyên về lĩnh vực lâm sàng. Điều dưỡng viên có thể sử dụng kỹ năng đánh giá của họ để xác định thuốc mà một bệnh nhân cần và sau đó viết toa thuốc. Bên cạnh đó họ phải cung cấp những đánh giá về tình trạng bệnh nhân tại thời điểm đó để bác sĩ kê toa thuốc. Trong trường hợp tình trạng bệnh nhân không ổn định và việc sử dụng một loại thuốc nào đó không khiến bệnh nhân khá hơn thì điều dưỡng viên phải thông báo ngay để bác sỹ điều chỉnh toa thuốc hoặc ngưng sử dụng đến khi nào tình trạng của bệnh nhân được cải thiện.

  •  Điều dưỡng là nghệ thuật

Trong nhiều năm ngành điều dưỡng được biết đến như là một nghệ thuật và khoa học. Một điều dưỡng viên để thành công trong sự nghiệp của mình phải thực hiện tất cả các nhiệm vụ trên cũng như thực hành nghệ thuật điều dưỡng là một công cụ mà điều dưỡng viên học hỏi theo thời gian. Một phần của nghệ thuật điều dưỡng là biết cái gì là sai khi tất cả mọi thứ dường như đúng. “Cảm giác quen thuộc” là một phần quan trọng đối với điều dưỡng viên thành công và an toàn với bệnh nhân. Một điều dưỡng viên phải liên tục cập nhật những thông tin liên quan đến bệnh nhân và phải biết cân nhắc thông tin nào là quan trọng vào thời điểm đó và lúc đó “nghệ thuật điều dưỡng” phát triển mạnh. Phần khoa học của điều dưỡng được phát triển từ giá trị phòng thí nghiệm được gọi là bệnh lý của bệnh nhân và quan trọng là dấu hiệu bệnh lý. Tất các giá trị phải được giải thích và được quyết định cho việc chăm sóc, cùng với ý thức của điều dưỡng viên về những nhu cầu hiện tại của bệnh nhân. Khi một điều dưỡng viên biết kết hợp giữa khoa học về điều dưỡng và nghệ thuật điều dưỡng thì điều dưỡng viên sẽ thành công và được các bệnh nhân yêu mến. 

  • Điều dưỡng viên phải có kỹ năng đánh giá chuẩn xác

Khả năng để làm một đánh giá toàn diện về mặt thể chất của bệnh nhân là một kỹ năng rất quan trọng đối với điều dưỡng viên. Một đánh giá thường được tập hợp dữ liệu về các điều kiện trong bệnh lý. Một phần của đánh giá là nghe tim phổi và mạch đập nhưng một đánh giá toàn diện bao gồm nhiều chi tiết hơn. Những đánh giá làm hằng ngày trong mỗi ca, có thể là nhiều hay ít tùy thuộc vào các điều kiện ở một thời điểm thích hợp. Mục đích của việc đánh giá bệnh nhân là ghi nhận lại tiến độ và nhận ra càng sớm càng tốt bất kỳ thay đổi nào trong điều kiện đó.

  •  Điều dưỡng viên “luật sư” của bệnh nhân

Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của điều dưỡng viên là biện hộ cho bệnh nhân. Các điều dưỡng viên phải hành động thay mặt cho bệnh nhân của mình khi tham gia trong các quá trình chăm sóc sức khỏe với nhóm chăm sóc sức khỏe. Chẳng hạn như điều dưỡng viên phải thông báo ngay cho đội hô hấp khi một bệnh nhân có khó thở. Điều này có nghĩa là điều dưỡng viên hành động như là người ủng hộ bệnh nhân trước mặt bác sĩ hoặc điều dưỡng viên cảm thấy việc điều trị của bác sĩ là không có cơ sở và nguy hiểm cho bệnh nhân. Một điều dưỡng viên phải có lời lẽ mạnh mẽ thuyết phục khi giải quyết các vấn đề liên quan đến bệnh nhân với bác sĩ và chuyên gia y tế khác.

  • Điều dưỡng viên luôn lắng nghe

Đó là điều quan trọng để các điều dưỡng viên nhớ rằng chăm sóc bệnh nhân là điều dưỡng và họ không phải là máy móc. Thường các trang thiêt bị thông báo với điều dưỡng viên rằng bệnh nhân ổn, nhưng bệnh nhân thường nói với điều dưỡng viên là không. Máy móc có thể sai sót và thương chỉ đưa ra một hình ảnh về bệnh nhân trong khi thực tế bệnh nhân có muôn vẻ. Lắng nghe những gì bệnh nhân nói, cả bằng lời hoặc không lời, đó là công cụ quan trọng chăm sóc bệnh nhân và lúc đó điều dưỡng viên quên lãng các trang thiết bị.

  •  Điều dưỡng chuyên gia tư vấn tận tâm

Điều dưỡng viên tư vấn bệnh nhân mỗi khi gặp họ ở bất kỳ nơi nào tại văn phòng hay tại nơi tư vấn bệnh nhân ở bệnh viện. Bệnh nhân tìm kiếm điều đưỡng như là một chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Điều dưỡng viên được yêu cầu phải cùng kiểm tra thuốc với bệnh nhân sau khi họ nhận thuốc và tư vấn cho họ những loại trừ khi sử dụng. Công việc tư vấn của điều dưỡng viên không hoàn toàn kết thúc khi bệnh nhân xuất viện mà điều dưỡng viên còn phải tiếp tục tư vấn cho gia đình của họ để đảm bảo rằng bệnh nhân được chăm sóc trong một môi trường ổn định. Trong thời gian điều trị bệnh khắc nghiệt và khó khăn, điều dưỡng viên sẽ tư vấn để quyết định cho bệnh nhân được thực hiện các điều trị hợp lý và nhanh chóng

Một ngày "theo chân" nữ điều dưỡng xinh đẹp của bệnh nhân nhí

Nghề điều dưỡng vốn đã khó khi thường xuyên phải đối diện với người bệnh đang rất "khó ở", với những điều dưỡng viên Viện Tai Mũi Họng T.Ư công việc còn khó hơn khi thường phải chăm sóc các bệnh nhân nhí.
Thường có mặt sớm nhất tại cơ quan, những điều dưỡng viên của Khoa Mũi Xoang (Viện Tai mũi họng T.Ư, Hà Nội) bắt đầu công việc hàng ngày của họ là sắp xếp lịch theo dõi bệnh nhân của cả Khoa.
Tuy 7h30 hàng ngày mới họp giao ban, nhưng trước đó, những điều dưỡng viên của Khoa đã phải tổng hợp, kiểm tra tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân để báo cáo.
Với đặc thù công việc là thường xuyên phải tiếp xúc và chăm sóc các bệnh nhân nhí nên việc tạo thân thiện, hoà nhập với bệnh nhân trong quá trình chăm sóc được các nữ điều dưỡng đặt lên hàng đầu.
Bắt đầu vào nghề và làm việc tại đây từ năm 2007, nữ điều dưỡng Trần Thanh Xuân (33 tuổi) đã tạo cho mình một thói quen đi kiểm tra giường của từng bệnh nhân vào mỗi buổi sáng sớm để nắm được tình trạng người bệnh.
"Bệnh nhân của Khoa thường là các em nhỏ mổ mũi xoang, mổ tai và cắt Amydal, nạo VA nên sau khi phẫu thuật thường phải lưu lại Viện một thời gian. Do các em còn nhỏ, chưa tự phát hiện được những thay đổi hậu phẫu nên việc thường xuyên phải kiểm tra các em là rất cần thiết. Thậm chí còn phải theo dõi nhiều hơn cả người lớn" - nữ điều dưỡng Trần Thanh Xuân cho biết.
Khác với nghề Y tá, điều dưỡng viên là người phụ trách công tác điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe, kiểm tra tình trạng bệnh nhân, kê toa thuốc và các công việc khác để phục vụ cho quá trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đến phục hồi, trị liệu cho bệnh nhân.
Theo một định nghĩa khác thì Điều dưỡng viên (bao gồm cả nam và nữ) là những người có nền tảng khoa học cơ bản về điều dưỡng, đáp ứng các tiêu chuẩn được kê toa tùy theo sự giáo dục và sự hoàn thiện lâm sàng.
Không chỉ chăm sóc đơn thuần, điều dưỡng viên phải tham gia vào quá trình khám bệnh để hiểu rõ hơn tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân, qua đó mới có thể thực hiện được những kỹ thuật điều dưỡng phức tạp của chuyên khoa. (Trong ảnh: Bác sĩ Vũ Mạnh Cường và nữ điều dưỡng Thanh Xuân đang nội soi mũi xoang cho một bệnh nhân nhỏ tuổi).
"Quan trọng nhất khi chăm sóc các bệnh nhân nhí là phải để cho các em quên đi bệnh tật và coi mình như mẹ, cô giáo thì các em mới kể cho điều dưỡng viên nghe về những thay đổi hay vấn đề đang gặp phải" - Thanh Xuân chia sẻ.
Với sự nhẹ nhàng nhưng nhiệt tình, ít ai biết rằng cô nữ điều dưỡng xinh đẹp này là một cán bộ đoàn năng động và có một gia đình với 2 cô con gái. Thanh Xuân chia sẻ thêm: "Nhìn các em nhỏ điều trị tại Viện chỉ bằng tuổi 2 con gái của mình nên càng lấy đó làm động lực để chăm sóc và điều trị cho các em".
Hiện nay, sau giờ làm việc tại Viện, Thanh Xuân vẫn tiếp tục theo học tại Đại học Y (Hà Nội). "Rất may là ông xã mình thông cảm và chia sẻ công việc gia đình để mình có thời gian làm việc và học tập hơn. Nghề của mình phải học đến khi nào nghỉ làm mới thôi" - Thanh Xuân vui vẻ khi nói về gia đình và công việc.
Hoàng Nam